Ngô (bắp) là cây lương thực có vị
trí đặc biệt quan trọng trong cơ cấu sản xuất trồng trọt, có diện tích lớn đứng
thứ 2 sau cây lúa. Mặc dù còn những hạn chế nhưng sản xuất ngô trong nước đã
đạt được những thành tựu khá nổi bật, nhất là trong nghiên cứu chọn tạo giống
ngô lai, các biện pháp kỹ thuật canh tác, thời vụ, công nghệ và thị trường…; là
động lực quan trọng thúc đẩy sản xuất ngô nước ta phát triển, góp phần giải
quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho bà con nông dân.
Trong sản xuất, bước đầu đã hình
thành các vùng sản xuất ngô hàng hóa tập trung, ứng dụng quy trình kỹ thuật mới
để tăng năng suất, giảm giá thành, tăng chất lượng sản phẩm... Tuy nhiên, cây
ngô được trồng chủ yếu trên diện tích thiếu nước, nghèo dinh dưỡng, vùng núi,
vùng khó khăn, qui mô sản xuất ngô của nước ta vẫn còn phân tán, nhỏ lẻ theo
nông hộ, chưa liên kết theo chuỗi, chưa gắn sản xuất với chế biến tiêu thụ;
công nghệ sau thu hoạch chưa được quan tâm, diện tích áp dụng cơ giới hóa trong
sản xuất ngô vẫn còn rất thấp, các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến chưa
được phổ biến, suất đầu tư thấp, sử dụng phân bón thiếu khoa học gây lãng phí
là nguyên nhân làm giảm hiệu quả của sản xuất ngô. Năng suất ngô trung bình của
nước ta vẫn còn thấp so với thế giới và một số nước trong khu vực, chúng ta
thực sự còn thiếu các gói kỹ thuật sản xuất ngô cho từng vùng sinh thái.
Tính đến hết ngày 30/9/2024, Bộ Nông
nghiệp và PTNT (Cục Trồng trọt) đã công nhận tổng số 31 giống ngô biến đổi gen
(GMO), bao gồm:
- Giống ngô GMO tạo ra từ giống nền
được công nhận theo Thông tư 29/2014/TT-BNNPTNT ngày 05/9/2014 của Bộ Nông
nghiệp và PTNT: 30 giống.
- Giống ngô GMO được công nhận theo
theo Luật Trồng trọt và Nghị định 94/2019/NĐ-CP ngày 31/12/2019: 01 giống
Theo báo cáo của các Công ty, trong
10 năm qua (từ năm 2015 khi có giống ngô GMO đầu tiên được công nhận đến hết
ngày 30/9/2024), tổng lượng hạt giống ngô GMO nhập khẩu là 13.256/72.141 tấn
(chiếm 22,5% tổng lượng giống nhập khẩu), tương đương 662 nghìn ha diện tích
gieo trồng.
Các giống ngô GMO nhập khẩu đều mang
sự kiện chuyển gen kháng sâu hại bộ cánh vảy (sâu đục thân, đục bắp, đục cờ)
được gieo trồng tại các vùng sinh thái được công nhận. Theo đánh giá sơ bộ của
các địa phương:
- Các giống sinh trưởng phát triển
khỏe và phù hợp với cơ cấu mùa vụ tại các vùng trồng ngô nước ta do giống
ngô GMO tương đồng so với giống nền ở các tính trạng hình thái đặc trưng.
- Đối với vụ, vùng trồng ngô chịu áp
lực cao về sâu hại bộ cánh vảy (sâu đục thân, đục bắp, đục cờ), sử dụng
giống ngô GMO thể hiện khả năng kháng sâu với các nhóm sâu bệnh mà giống được
chuyển gen kháng. Khả năng kháng sâu thể hiện ở chỗ: ít phải sử dụng thuốc phun
trừ sâu hơn đối với nhóm dịch hại so so với giống nền không được chuyển gen
kháng, Hiệu quả kinh tế mang lại cao hơn so với giống truyền thống do không tốn
kinh phí mua thuốc và công phun thuốc.
Ngược lại, đối với vụ, vùng trồng
ngô không chịu áp lực cao về sâu đục thân, sử dụng giống ngô GMO không thể hiện
rõ khả năng kháng sâu hại bộ cánh vảy. Hiệu quả kinh tế mang lại không rõ ràng
với giống truyền thống, giống nền do chi phí giống ngô GMO cao hơn giống nền,
giống địa phương.
- Về năng suất, chất lượng cho thấy:
giống ngô GMO cho năng suất trung bình cao hơn so với giống truyền thống ở
những vụ, vùng chịu áp lực cao về sâu hại; chất lượng hạt thương phẩm cũng tốt
hơn so với giống truyền thống do hạt không bị hại bởi sâu đục thân và nấm bệnh.
Ngược lại, ở những vụ, vùng không
chịu áp lực cao về sâu hại, giống ngô GMO cho năng suất trung bình không cao
hơn rõ ràng so với giống truyền thống; chất lượng hạt thương phẩm tương tự
giống truyền thống.
Bộ Nông nghiệp và PTNT xác định cây ngô
(ngô lấy hạt các loại, ngô sinh khối, ngô rau) là đối tượng cây trồng quan
trọng trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng với ngô GMO cần có những đánh giá
chuyên sâu, bài bản, hệ thống và lâu dài về những tác động trong việc sử dụng
các giống ngô GMO trên diện rộng.
Trong đó, yêu cầu đánh giá tác động
(trực tiếp hoặc gián tiếp) lâu dài hàng nhiều chục năm, trăm năm mang tính tích
lũy của việc sử dụng sản phẩm GMO làm thực phẩm, thức ăn chăn nuôi tới con
người và động vật.
TT
|
Thông tin
|
Năm
|
2015
|
2016
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
2021
|
2022
|
2023
|
2024
|
1
|
Diện tích ngô cả nước
|
1.178,9
|
1.152,7
|
1.099,5
|
1.032,9
|
986,7
|
942,5
|
902,8
|
887,2
|
884,6
|
-
|
2
|
Nhu cầu giống (tấn)
|
23.578
|
23.054
|
21.990
|
20.658
|
19.734
|
18.850
|
18.056
|
17.744
|
17.692
|
-
|
3
|
Sản xuất trong nước (tấn)
|
12.864
|
15.777
|
13.483
|
13.941
|
12.167
|
13.457
|
13.961
|
10.554
|
9.061
|
-
|
4
|
Nhập khẩu (tấn)
|
10.714
|
7.277
|
8.507
|
6.717
|
7.567
|
5.393
|
4.095
|
7.190
|
8.631
|
6.050
|
-
|
Giống nền
|
10.047
|
6.877
|
7.723
|
5.956
|
5.610
|
3.294
|
3.052
|
4.683
|
7.071
|
4.569
|
-
|
Giống GMO
|
667
|
400
|
784
|
761
|
1.956
|
2.099
|
1.042
|
2.506
|
1.560
|
1.481
|
-
|
% giống GMO/
giống nền
|
6,6
|
5,8
|
10,2
|
12,
8
|
34,9
|
63,7
|
34,1
|
53,5
|
22,1
|
32,4
|
Bảng: Khối lượng giống ngô GMO/giống nền biến đổi gen nhập khẩu
(từ 2015-9/2024); theo số liệu của Cục Trồng
Trọt tính đến ngày 30/9/2024.
(Vương
Lan)