Theo đó, nội dung Đề án đã được Ủy ban nhân dân
tỉnh phê duyệt vào cuối năm 2020 bao gồm 05 vấn đề chính: Xây dựng các mô hình
thí điểm điển hình (mô hình nhóm A, B, C); Xây dựng vườn ươm giống cây ăn trái; Đào tạo nguồn nhân
lực trong nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; Xây dựng phòng thí nghiệm kiểm
soát chất lượng sản phẩm nông nghiệp và Xây dựng trung tâm thông tin nông nghiệp.
Về phía Ban Quản lý Khu công nghệ cao công nghệ
sinh học (Ban Quản lý) đã được giao làm chủ đầu tư triển khai thực hiện các nội
dung: nhóm 5 mô hình công nghệ cao mang tính đột phá (mô hình nhóm A): Bơ Hass,
Thanh long vỏ vàng, chanh dây ngọt, dứa MD2, chuối già Nam Mỹ; mô hình trồng
rau trong nhà lưới (mô hình nhóm B); Xây dựng vườn ươm giống cây ăn trái; và
Xây dựng Trung tâm Thông tin nông nghiệp.

Các địa
phương nêu khó khắn vướng mắc
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai còn nhiều
khó khăn, vướng mắc khiến đề án bị chậm so với lộ trình, kế hoạch đề ra như: Hiện
vẫn chưa có định mức kinh tế kỹ thuật cho từng mô hình thuộc Đề án, do đó chưa
đủ căn cứ để tính toán chi phí đầu tư cho các mô hình nhóm A, B, C; Chưa có
chuyên gia nông nghiệp Israel để chuyển giao công nghệ áp dụng cho từng mô
hình; chưa có chính sách đặc thù để hỗ trợ người dân áp dụng đồng bộ công nghệ
Israel vào sản xuất trong khi chi phí đầu tư ban đầu cao; và việc vận động các
hộ nông dân thực hiện đăng ký thí điểm ứng dụng công nghệ cao của Israel gặp
nhiều khó khăn do điều kiện thực hiện mô hình đòi hỏi chi phí đầu tư cao.
Bên cạnh đó, việc thực hiện điều chỉnh quy hoạch phân khu tại Ban Quản lý vẫn chưa
thực hiện được, nguyên nhân do UBND tỉnh vẫn đang chờ ý kiến của các Bộ, ngành
về việc đề xuất chuyển đổi loại hình hoạt động từ Khu công nghệ cao công nghệ
sinh học thành Khu công nghệ cao nên chưa đủ cơ sở pháp lý để Ban Quản lý đề xuất
chủ trương đầu tư thực hiện các nội dung đề án đã được giao theo quy định.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh
Võ Văn Phi kết luận cuộc họp
Kết luận cuộc họp, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Võ
Văn Phi đề nghị Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh một số nội dung sau:
(1) Bám theo 5 nội dung trong Đề án để chủ động triển khai; đảm
bảo bám sát tiến độ thực hiện theo Đề án; cần
quan tâm đến công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra các mô hình chọn làm thí điểm.
(2) Chủ động điều chỉnh một số nội dung đề án như: đưa
các mô hình nhóm A, B đã phân bổ trong Khu công nghệ cao công nghệ sinh học ra triển
khai tại các địa phương đáp ứng đủ điều kiện, phù hợp yêu cầu của mô hình; lựa
chọn các doanh nghiệp có điều kiện nguồn lực về đất đai, vốn, kỹ thuật, có mã số
vùng trồng,.. để cùng phối hợp thực hiện đầu tư các mô hình đảm bảo Đề án kịp
tiến độ theo quy định.
(3) Đối với các mô hình nhóm B, C dự kiến triển
khai thực hiện tại các địa phương cần xem xét điều chỉnh các hình thức ứng dụng
phù hợp để các địa phương thuận lợi triển khai, tuyển chọn mô hình trong điều
kiện thực tế sẵn có (các mô hình đang kinh doanh, sản xuất), hỗ trợ thâm canh sản
xuất theo hình thức ứng dụng một phần, ứng dụng một số giải pháp công nghệ phù
hợp để góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm so với các phương pháp canh tác hiện
đang áp dụng.
(4) Quan tâm thực hiện chương trình đào tạo nâng
cao năng lực cán bộ để tạo đội ngũ có trình độ phục vụ đề án đạt hiệu quả cao.
(5) Xúc tiến việc xây dựng vườn ươm giống cây ăn
trái, phối hợp các địa phương khảo sát, xem xét vị trí, đơn vị phù hợp để sớm
triển khai thực hiện.
(6) Đối với Xây dựng Trung tâm thông tin nông nghiệp,
Sở Nông nghiệp cần chủ động tổng hợp thông tin về các vấn đề thuộc quản lý của
đơn vị, tích hợp lên cổng thông tin điện tử của tỉnh.
Bên cạnh
đó, các Sở, ngành, địa phương cần quan tâm phối hợp,
chọn lựa các mô hình công nghệ cao đã đi
học tập; những mô hình chuỗi liên kết hiệu quả; mô hình gắn với các vùng chuyên
canh có mã số vùng trồng, có cơ sở đóng gói; gắn với xây dựng sản phẩm OCOP,
thương hiệu nông sản của địa phương. Gắn kết trách nhiệm của các Trung tâm dịch
vụ nông nghiệp tỉnh, huyện với các nội dung thực hiện Đề án nhằm xúc tiến đẩy
nhanh tiến độ thực hiện Đề án.
(Ths.
Vương Lan)