Những năm qua, Việt Nam đã có nhiều cơ chế, chính
sách thông thoáng để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Nhờ đó, các
doanh nghiệp FDI đã có mặt ở khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước và đóng góp
tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Bằng
chính sách mở cửa, ưu đãi và môi trường kinh doanh hấp dẫn, trong những năm
qua, Việt Nam đã thu hút được một số lượng lớn dự án và nguồn vốn FDI.
Có 94 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam.
Xin-ga-po là quốc gia dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt 6,28 tỷ USD, chiếm 28,4%
tổng vốn đầu tư vào Việt Nam; Hàn Quốc đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 3,91 tỷ
USD chiếm 17,7% tổng vốn đầu tư. Nhật Bản đứng thứ 3 đạt 3,27 tỷ
USD, chiếm 14,7% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan,
Hà Lan, Hoa Kỳ,….
Những thành tích trong thu hút FDI của Việt Nam là rất đáng
ghi nhận, tuy nhiên vẫn còn một số những hạn chế nhất định. Nhiều địa phương vẫn
còn dễ dãi trong việc chấp nhận khá nhiều dự án FDI quy mô nhỏ, không mang lại
hiệu quả cho địa phương về tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách. Một số địa
phương còn có tình trạng cấp đất quá lớn cho dự án FDI mà không căn cứ vào quy
hoạch của địa phương… Bên cạnh đó, chính sách ưu đãi đầu tư cũng còn nhiều bất
cập, vẫn chủ yếu dựa vào ưu đãi thuế, giá thuê đất, chi phí nguyên liệu trong
khi chưa tương xứng với hiệu quả mà các dự án FDI mang lại.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ FDI:
Thứ nhất, để thu hút được đầu tư từ các tập đoàn xuyên quốc gia, nhất là từ những
nước phát triển như: Mỹ và khối EU, ngoài những vấn đề liên quan đến môi trường
đầu tư nói chung, Việt Nam cần chú trọng quan tâm đến đòi hỏi của những nhà đầu
tư về một số khía cạnh như: Tính công khai, minh bạch, ổn định, dễ dự báo về
thể chế, chính sách và luật pháp; thực thi pháp luật nghiêm minh, thống nhất,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; thủ tục hành chính đơn giản,
bảo đảm thời gian đã quy định.
Thứ hai, đối
với các địa phương đã phát triển đang cần thu hút dự án công nghệ cao, công
nghệ tương lai, dịch vụ hiện đại; Chú trọng đến việc đáp ứng yêu cầu của các
tập đoàn xuyên quốc gia về thời gian đàm phán, ký thỏa thuận và triển khai thực
hiện.
Thứ ba, các
doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực nâng cao năng lực về tất cả các mặt, từ
công nghệ đến năng lực, trình độ của đội ngũ người lao động, quản lý. Chỉ khi
đó, các doanh nghiệp FDI mới tìm đến đặt hàng và hỗ trợ hoàn thiện quy trình
sản xuất đáp ứng yêu cầu của họ.
Thứ tư, rà
soát lại việc sử dụng FDI hiện tại để có kế hoạch điều chỉnh, cơ cấu lại hợp
lý; Ưu tiên các nhà đầu tư chiến lược; tạo lập chuỗi sản xuất toàn cầu; ưu tiên
doanh nghiệp công nghệ cao và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ năm, kiểm
soát chặt chẽ những dự án đầu tư không phù hợp với nhu cầu phát triển của Việt
Nam hoặc những lĩnh vực mà doanh nghiệp trong nước đủ năng lực về công nghệ.
Tuy nhiên, để tận dụng lợi thế này thì trước mắt Việt
Nam cần giải quyết các vấn đề lớn còn tồn đọng, triển khai các biện pháp để tạo
môi trường kinh doanh lành mạnh; sở hữu trí tuệ được đảm bảo, bản quyền, thương
quyền cải cách hành chính tạo điều kiện cho các doanh nghiệp châu Âu nói riêng
và các doanh nghiệp có vốn FDI nói chung được cấp phép đầu tư.
Đinh Hữu Thịnh